Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của trào lưu hiện thực phê phán thế kỷ XX. Bằng ngòi bút sắc sảo, nhiều nhân vật trong tác phẩm của ông đã trở thành những hình tượng tiêu biểu của mọi thời đại. Nam Cao luôn có quan điểm “Sống đi rồi hãy viết”. Trong bài viết hôm nay, chúng tôi sẽ giúp bạn tìm hiểu thêm về tiểu sử, quan điểm nghệ thuật và những câu nói hay nhất của nhà văn Nam Cao. Hãy cùng theo dõi nhé.
Cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nam Cao
Bạn đang xem: nam cao được mệnh danh là gì
Nam Cao (1915 - 1951) tên thật là Trần Hữu Tri, Quê quán ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân, Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Nhưng anh sống và làm việc chủ yếu ở tỉnh Ninh Bình. Bút danh Nam Cao của ông lấy từ tên xã Cao Đà, huyện Nam Xang.
Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo trung lưu. Cha ông là ông Trần Hữu Huệ vừa là thầy lang, vừa là thợ mộc trong làng. Mẹ là bà Trần Thị Minh, một người phụ nữ cần cù, làm vườn, nội trợ, dệt vải, làm vườn.
Thuở nhỏ ông học tiểu học ở trường làng. Cấp 1 và cấp 2, ông vào Nam Định học trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung. Nhưng vì thể chất yếu, không có thời gian đi thi nên anh phải về nhà điều trị, rồi lấy vợ năm 18 tuổi.
Trước khi đến với nghiệp cầm bút, Nam Cao đã kinh qua rất nhiều nghề. Cưới xong, anh vào Sài Gòn làm việc trong một tiệm may với vai trò thư ký. Nhưng vì thu nhập không đủ nên anh bắt đầu viết truyện để kiếm sống. Dưới bút danh Thủy Ru, Nam Cao đã cho ra đời một số tác phẩm: Mù, Nghèo, Cô Tấm, Cánh Hoa Tàn.
Sau đó, ông trở về Bắc tự học để dự kỳ thi Thành Chung. Nam Cao dạy học tại một trường học ở Hà Nội. Ông viết truyện ngắn "Cái chết" đăng trên báo Hà Nội Tân Văn dưới bút danh Xuân Du.
Sau khi rời Hà Nội, ông trở về tiếp tục dạy học tại quê nhà. Thời kỳ này ông viết tiểu thuyết Chết, sau đổi thành Sống, và trở thành một trong những hội viên đầu tiên gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ông vào Nam làm phóng viên. Tại đây, ông đã xuất bản nhiều tập truyện ngắn đăng trên các báo như Bi kịch má hồng trên tạp chí Tiền Phong, in tập truyện ngắn Cười ở NXB Minh Đức, in lại tập truyện ngắn Chí Phèo.
Năm 1951, trong một lần đi công tác ở tỉnh Ninh Bình, Nam Cao bị Pháp phục kích bắt và xử bắn.
Năm 1956, cuốn tiểu thuyết Long Live của ông được xuất bản lần đầu.
Quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nam Cao
Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, Nam Cao luôn trăn trở về ý nghĩa của công việc sáng tác của mình. Rồi sau này, Người cũng nghiệm ra rằng, dù làm gì, viết gì thì điều đầu tiên Người phải làm là hướng dẫn đời sống nhân dân.
Nam Cao không chấp nhận thứ văn chương xa rời đời sống nhân dân và những bất công trong xã hội. Chính vì vậy, trong tác phẩm Trăng sáng, ông đã viết: “Chà! Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật phải là tiếng đau khổ thoát ra từ một kiếp người lầm than.”
Xem thêm: bứt phá điểm số cho teen
Qua đó ta thấy rõ một điều, quan điểm nghệ thuật của Cao nam chính là muốn nghệ thuật song hành cùng nỗi than, nỗi đau mà con người phải chịu đựng. Vì vậy, trong nhiều tác phẩm, ông luôn nói lên sự thật dù phũ phàng để phản ánh hiện thực xã hội chân thực, sinh động nhất. Ông không ngại vạch trần bộ mặt xấu xa, độc ác của những kẻ cầm quyền như Bá Kiến đã làm cho cuộc sống con người trở nên bi đát, đau thương.
Đối với Nam Cao, mục đích của nghệ thuật luôn gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người. Ông đã thẳng thắn tố cáo cái xấu, cái ác và thể hiện tình yêu thương sâu sắc đối với những con người khốn khổ, thiếu thốn trong xã hội bấy giờ.
Những câu nói hay của nhà văn Nam Cao
Dù hàng ngày phải sống trong bộn bề, mưu sinh nhưng mỗi tác phẩm ông viết ra đều là những suy ngẫm về cuộc đời. Dưới đây là những câu nói hay của nhà văn Nam Cao khiến chúng ta phải suy nghĩ sâu sắc hơn.
"Ái chà! Còn những người xung quanh ta, nếu ta không cố gắng tìm hiểu họ, ta chỉ thấy họ điên khùng, ngu xuẩn, đê tiện, xấu xa, ghê tởm… đều là cớ để ta độc ác; chúng ta không bao giờ xem họ là những người đáng thương; Tôi sẽ không bao giờ yêu…” (Lão Hạc).
“Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai người khác để thỏa mãn lòng ích kỷ của mình. Người mạnh mẽ là người giúp đỡ người khác trên đôi vai của mình” (The Legacy)
“Văn chương không cần những người thợ lành nghề theo một khuôn mẫu nào đó. Văn chương chỉ dung nạp được những ai biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa khơi, và sáng tạo những cái chưa có” (Đời thừa).
"Ái chà! Ồ! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối; Nghệ thuật có khi chỉ là tiếng đau khổ thoát ra từ những mảnh đời bất hạnh, vang vọng mạnh mẽ trong lòng người…”. (Trăng Sáng).
Xem thêm: Nhà văn Nguyên Hồng nhà văn đau khổ
“Mỗi người sống phải làm sao phát huy hết khả năng con người chứa đựng trong mình. Chúng ta phải đóng góp sức lực của mình vào công việc vì sự tiến bộ chung. Mỗi người chết đi đều phải để lại một chút gì đó cho nhân loại” (Works on Living).
Xem thêm: Phân tích tác phẩm "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia" Môn Ngữ văn Lớp 10
Bình luận