sứ mệnh lịch sử là gì

3.2/5 - (13 phiếu bầu)

Chia sẻ chủ đề Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, cho học sinh tham khảo. Và còn rất nhiều chủ đề viết thuê luận văn khác được Dịch vụ viết thuê luận văn cập nhật hàng ngày đến các bạn sinh viên đang làm tiểu luận triết học về chủ đề này. Tên đề tài: sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và mối quan hệ của nó với giai cấp công nhân Việt Nam , nếu muốn tham khảo thêm các bài viết có thể tham khảo tại website của Dịch vụ viết luận văn Vui lòng.

Bạn đang xem: sứ mệnh lịch sử là gì

Ngoài ra nếu các bạn gặp khó khăn trong quá trình viết tiểu luận môn học, tiểu luận tốt nghiệp thì hãy liên hệ Dịch vụ viết luận văn để được giúp đỡ bài tập về nhà. Hoặc bạn có thể tham khảo dịch vụ viết thuê luận văn tại đây.

===> Viết luận cho môn học

LỜI MỞ ĐẦU

Trong bất kỳ thời đại xã hội nào, công nhân sản xuất trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp hay công nhân đều có vai trò sáng tạo lịch sử chân chính và là người giữ vai trò quyết định. sáng tạo ra công cụ sản xuất, giá trị thặng dư và chính trị - xã hội. của quá trình ra đời, hình thành và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong đó, chủ nghĩa xã hội khoa học tập trung nghiên cứu những nguyên tắc cơ bản, điều kiện, con đường, hình thức phương pháp đấu tranh của giai cấp công nhân trong quá trình quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

Từ vai trò to lớn của giai cấp công nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, nhiều người tỏ ra dao động, hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Bọn cơ hội xét lại, các thế lực chống cộng có cơ sở mới để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội.

Trong giai đoạn mới hiện nay, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra trên toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở thời kỳ thoái trào, thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản. Vấn đề làm rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Đối với nước ta, vấn đề này không sao cả. Đảng chúng tôi rất chú trọng. Vì vậy, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ được thể hiện rõ nét trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc mà nó còn là một trong những đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà lý luận, nhà nghiên cứu. lịch sử , của nhiều thế hệ công nhân và học sinh .

Sự tác động của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ tác động đến sự biến đổi của lịch sử thế giới, chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác, chuyển từ trình độ kinh tế này sang trình độ kinh tế khác... mà còn làm thay đổi cục diện kinh tế - xã hội toàn thế giới, nó ảnh hưởng đến quá trình sản xuất cụ thể, bộ mặt phát triển của thế giới. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại của chủ nghĩa Mác

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ ý nghĩa cơ bản, nội dung và sự thể hiện cụ thể sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới: “Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của cả dân tộc vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. theo định hướng xã hội chủ nghĩa…”

I. Khái niệm giai cấp công nhân (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

1. Khái niệm chủ nghĩa Mác-Lênin

Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ khái niệm giai cấp công nhân. Chính Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra: "Vấn đề là giai cấp vô sản thực chất là gì, và xét theo sự tồn tại của chính nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì trong điều kiện lịch sử".

Marx và Engels đã sử dụng các thuật ngữ khác nhau: giai cấp vô sản, giai cấp xã hội hoàn toàn dựa vào việc bán sức lao động của mình, lao động làm công ăn lương ở thế kỷ XIX, giai cấp công nhân vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp... để biểu thị một khái niệm về giai cấp công nhân - con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp hiện đại biểu hiện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất hiện đại.

Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào thì theo C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn chỉ có hai tính chất cơ bản: (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Về phương thức lao động và phương thức sản xuất, đó là những người lao động trực tiếp hoặc gián tiếp vận hành những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Các giai cấp khác đều suy tàn và diệt vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản là sản phẩm của chính công nghiệp lớn”; “Người công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc… Công nhân Anh là con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại.”

- Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là người công nhân không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột để lấy giá trị thặng dư. Thuộc tính thứ hai này nói lên một trong những đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân dưới chủ nghĩa tư bản, vì vậy Mác và Ăng-ghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản. Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, diện mạo của giai cấp công nhân hiện đại đã có nhiều đổi khác so với trước. Cơ cấu nghề nghiệp của giai cấp công nhân có những thay đổi lớn: bên cạnh công nhân ngành cơ khí đã xuất hiện công nhân ngành tự động hóa, với sự ứng dụng rộng rãi của công nghệ thông tin. trong sản xuất. Tuy nhiên, dù trình độ kỹ thuật có thay đổi như thế nào thì xét về tiêu chí kinh tế - xã hội, giai cấp công nhân vẫn tồn tại với tư cách là một giai cấp đặc thù. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Căn cứ vào hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân đã trình bày ở trên, có thể coi người lao động trong sản xuất công nghiệp và dịch vụ công nghiệp là người lao động. Những người làm công ăn lương phục vụ trong các lĩnh vực khác như y tế, giáo dục, văn hóa, dịch vụ (không trực tiếp sản xuất công nghiệp)... là lao động phổ thông đang được thu hút. vào các công đoàn nghề nghiệp, nhưng không phải là công nhân.

Sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp thống trị, không còn địa vị giai cấp bị bóc lột nữa mà trở thành giai cấp thống trị, giai cấp lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo. tạo ra xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, đại diện cho toàn thể nhân dân lao động, làm chủ những tư liệu sản xuất cơ bản được công hữu hóa. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân được đặc trưng chủ yếu bởi thuộc tính thứ nhất; Còn thuộc tính thứ hai, nếu xét toàn diện thì giai cấp công nhân đã là chủ nhưng trong điều kiện tồn tại nhiều thành phần kinh tế thì trong các doanh nghiệp cũng có một bộ phận là công nhân làm thuê. riêng tư. Những người này trên danh nghĩa là tham gia vào sở hữu của toàn thể giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhưng về mặt cá nhân, họ vẫn là người làm thuê, làm công ăn lương và ở một mức độ nhất định, vẫn bị giới tư hữu bóc lột giá trị thặng dư.

2. Khái niệm giai cấp công nhân (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử. lịch sử của giai cấp công nhân thời cận đại. Dựa vào hai tính chất cơ bản trên, ta có thể định nghĩa:

Giai cấp công nhân là nhóm người lao động trực tiếp hoặc gián tiếp vận hành công cụ sản xuất, có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, có trình độ xã hội hóa và quốc tế hóa cao.

-Họ là những người bán sức lao động để kiếm sống

- Công nhân có trình độ tri thức cao hơn, đời sống và quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất được cải thiện. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là người sở hữu tư liệu sản xuất. chủ yếu

- Hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với tốc độ của lực lượng sản xuất xã hội hóa ngày càng cao.

-Là lực lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến tham gia trực tiếp vào các quá trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp để sản xuất, tái sản xuất ra củ vật chất, cải tạo các mối quan hệ xã hội.

-Là đại biểu của lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời kỳ quá độ lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột vì giá trị thặng dư; Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân là người đã cùng nhân dân lao động làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu, là giai cấp lãnh đạo xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. quốc gia xã hội chủ nghĩa.

- Chính Mác và Ăng-ghen đã chỉ rõ: “Vấn đề là phải tìm cho ra giai cấp vô sản thực sự là gì và phù hợp với sự tồn tại của chính nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì trong điều kiện lịch sử”. Để chỉ giai cấp công nhân, các nhà kinh điển đã dùng nhiều khái niệm như: giai cấp vô sản, giai cấp xã hội, giai cấp công nhân. .. hoàn toàn dựa vào việc bán sức lao động của mình và làm công ăn lương trong thế kỷ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp giống như những từ đồng nghĩa. nghĩa là biểu thị một khái niệm.

Vì sao C.Mac và Ph.Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh hai thuộc tính của GCCN? Vì đây là hai tiêu chí để phân biệt giai cấp công nhân với các giai cấp khác. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Hiện nay, cơ cấu nghề nghiệp của giai cấp công nhân đã có những thay đổi lớn. Bên cạnh lực lượng lao động truyền thống đã xuất hiện lao động có kỹ năng tự động hóa với việc ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào sản xuất. Bên cạnh các ngành truyền thống, lao động xuất hiện trong lĩnh vực dịch vụ. Trên thực tế, ở các nước tư bản, lao động trong các ngành dịch vụ này chiếm từ 50% đến 70% lực lượng lao động. Tuy nhiên, điều này không làm giảm vai trò của giai cấp công nhân trong nền kinh tế và thậm chí là tỷ trọng của giai cấp công nhân trong dân số. Bởi vì nhân viên trong các ngành dịch vụ gắn liền với ngành và hoạt động. Trong đường lối công nghiệp, họ vẫn là công nhân xét trên cả hai thuộc tính của giai cấp công nhân. Mặt khác, bên cạnh những công nhân truyền thống có trình độ thấp, đã xuất hiện những công nhân có trình độ cao, có xu hướng “trí thức hóa” và cũng ngày càng thu hút những người thuộc tầng lớp trí thức vào hàng ngũ của mình. Mặc dù vậy, bản chất của giai cấp công nhân không hề thay đổi. Nếu trước đây, người công nhân bán sức lao động chân tay là chủ yếu thì nay, họ bán sức lao động chân tay và trí óc, giá trị ngày càng tăng và do đó giá trị thặng dư được bóc lột theo chiều sâu. .giai cấp công nhân bắt đầu có sự thay đổi về tài sản. Phần lớn, họ không còn là những người vô sản trần trụi với hai bàn tay trắng, mà họ có một số tư liệu sản xuất phụ để họ có thể lao động cùng gia đình; một số công nhân có cổ phần, cổ phần trong nhà máy. Tuy nhiên, nó không làm thay đổi toàn bộ lực lượng sản xuất cơ bản nhất, quyết định nhất đối với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mà vẫn là sự bóc lột dưới các hình thức khác nhau.

Giai cấp công nhân ngày nay không chỉ ở lĩnh vực công nghiệp mà còn ở tất cả các ngành khác nhau của nền công nghiệp hiện đại. Họ là người trực tiếp đứng máy, không ở trong dây chuyền sản xuất tự động, không kiểm tra vận hành. máy móc… mà đó là những chuyên gia trực tiếp chăm lo nghiên cứu, sáng chế để không ngừng cải tiến máy móc nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động. Họ là những người hoạt động trong các ngành dịch vụ phục vụ trực tiếp cho sản xuất như bưu chính viễn thông, giao thông vận tải… Họ cũng là những người làm thuê trong các ngành dịch vụ đang trở thành công nghiệp. rất thích ngành du lịch, ngân hàng, thông tin... họ cũng chính là những nhân viên làm công ăn lương cho hệ thống quản lý của các công ty. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Tóm lại, dựa trên hai tiêu chí cơ bản của giai cấp công nhân, ta có thể nói: người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ là người lao động, còn những người làm công ăn lương phục vụ trong các ngành khác như y tế, giáo dục, dịch vụ (không liên quan đến sản xuất công nghiệp).. .là những người lao động phổ thông, họ bị thu hút bởi các công đoàn nghề nghiệp nhưng họ không phải là Công nhân.

Có thể nói, quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai tiêu chí cơ bản của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu về giai cấp công nhân. con người hiện đại , đặc biệt là làm rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại hiện nay . Từ hai tiêu chí trên ta có thể xác định: “giai cấp công nhân là một tập thể xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là cơ sở lực lượng sản xuất tiên tiến, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội, là lực lượng chủ yếu của quá độ lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

II. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

1. Bối cảnh lịch sử (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân gắn liền với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất nên nó là lực lượng quyết định phá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân là đại diện cho sự tiến hóa tất yếu của lịch sử, là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. chủ nghĩa chính thống

2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Lịch sử phát triển của thế giới là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Trong xã hội có giai cấp, để giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ xã hội. Với quan hệ sản xuất cũ giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị phải phát triển từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên cao.

Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, có khả năng tổ chức và lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cách mạng chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa sang kinh tế chủ nghĩa. xã hội cộng sản, giải phóng loài người khỏi áp bức, bất công và mọi hình thức bóc lột. Nói cách khác, nội dung chung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: xóa bỏ hệ thống tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ hệ thống bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân. đưa nhân loại thoát khỏi ách áp bức bóc lột, thoát khỏi đói nghèo lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản văn minh.

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được thể hiện như sau: Trong lĩnh vực kinh tế: giai cấp công nhân xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xây dựng hệ thống công hữu. Làm chủ tư liệu sản xuất, nâng cao năng suất lao động để từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển của nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong lĩnh vực này chỉ rõ mục tiêu cuối cùng của giai cấp công nhân là thoả mãn ngày càng đầy đủ nhu cầu của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu.

Trong lĩnh vực chính trị: giai cấp công nhân phải trở thành giai cấp thống trị xã hội. Tức là phải đập tan chính quyền tư sản; xây dựng chính quyền nhà nước (chuyên chính vô sản): thực chất nhằm bảo đảm quyền lực chính trị thuộc về nhân dân, giữ vai trò quan trọng, là công cụ quan trọng để xây dựng xã hội mới, là kiểu nhà nước: nửa nhà nước, tự hoại. tình trạng

Về lĩnh vực xã hội: là xóa bỏ giai cấp bóc lột; phải thực hiện thủ tiêu giai cấp nói chung, tạo sự bình đẳng trong quan hệ giữa người với người. Ở đây, giai cấp bóc lột bị xóa bỏ với tư cách là một giai cấp chứ không còn là những cá nhân có thể trở thành những cá nhân có ích cho xã hội mới. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Có thể nói, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao gồm bốn sự nghiệp. Đó là sự nghiệp giải phóng giai cấp, sự nghiệp giải phóng xã hội và dân tộc; sự nghiệp giải phóng công nhân; và giải phóng con người. Đây là nấc thang phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Vì vậy, phải làm dần dần qua hai giai đoạn, tránh nóng vội:

Trong giai đoạn đầu, giai cấp công nhân và chính đảng của nó tiến hành đấu tranh giành chính quyền từ tay giai cấp vô sản.

Giai đoạn thứ hai, khi đã giành được chính quyền - thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội: Đảng cộng sản và giai cấp công nhân phải tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. với mục đích giữ vững chính quyền cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mà đỉnh cao là chủ nghĩa cộng sản.

Cho đến nay, với sự nỗ lực thích ứng với tình hình mới, chủ nghĩa tư bản thế giới vẫn đang tiến bộ, nhưng vẫn không vượt ra ngoài những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này không hề dịu đi mà ngày càng gay gắt và sâu sắc hơn. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của nhân loại. Đặc trưng của thời đại ngày nay là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Chừng nào chủ nghĩa tư bản còn, Trong khi đó, người lao động vẫn bị bóc lột và còn khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Vì vậy, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không thay đổi, họ vẫn có nhiệm vụ xóa bỏ chế độ bóc lột và xây dựng chế độ mới tiến bộ hơn.

Về đại thể, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ hệ thống tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ hệ thống bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. loài người khỏi mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản văn minh.

- Ph.Ăngghen viết: "Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới đó - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại". BỞI VÌ. Lênin cũng chỉ rõ: “Điểm chính trong học thuyết của Các Mác là ở chỗ nó làm rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản với tư cách là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Ở nước ta, giai cấp công nhân trước hết phải tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là lãnh đạo cuộc cách mạng đó thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, đấu tranh giành chính quyền, thiết lập chế độ chuyên chính dân chủ nhân dân. Trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân từng bước lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, không còn ai bóc lột người, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, bất công.

3. Điều kiện khách quan quyết định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Luận điểm về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được C.Mác và Ph.Ăngghen viết được thể hiện sâu sắc trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Trong tác phẩm này Người đã chỉ ra những điều kiện khách quan quyết định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan của mình, giai cấp công nhân là giai cấp gắn liền với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Và, với tư cách đó, nó là lực lượng quyết định phá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi nắm chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. .

Giai cấp công nhân, con đẻ của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, được đào tạo trong nền sản xuất công nghiệp tiên tiến, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề nhưng họ là giai cấp trực tiếp đối lập với giai cấp tư sản, về bản chất họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột. chủ nghĩa tư bản. Điều kiện sống khách quan của họ quy định rằng họ chỉ có thể tự giải phóng mình bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chủ nghĩa tư bản. Trong cuộc cách mạng đó, họ không mất gì ngoài xiềng xích và giành được cả thế giới cho mình.

Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ làm cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để nhất mà còn tạo điều kiện cho họ làm như vậy. Đó là khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp, khả năng giác ngộ về địa vị lịch sử, khả năng hành động chính trị để từng bước đạt được mục tiêu cách mạng. Đó là khả năng đoàn kết các giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Đó là khả năng đi đầu trong cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên phạm vi quốc tế theo chủ nghĩa quốc tế vô sản. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình không thuận buồm xuôi gió.

Mặc dù phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đang đứng trước những thách thức hết sức nặng nề, nhưng xét trong bức tranh toàn cảnh về sự phát triển của xã hội, giai cấp công nhân và lực lượng sản xuất tiến bộ vẫn đang chuẩn bị những kinh phí cần thiết. Tuy đã trải qua những bước thăng trầm, quanh co nhưng nó vẫn tiếp tục diễn ra theo quy luật khách quan của lịch sử.

Đúng là ở các nước tư bản phát triển, đời sống của một bộ phận lớn giai cấp công nhân được cải thiện, thu nhập cao; Một số công nhân ở các nước này đã có mức sống “trung lưu”, nhưng điều đó không có nghĩa là công nhân ở các nước này không còn bị bóc lột hoặc bị bóc lột không đáng kể.

Một thực tế đã, đang và còn tồn tại ngày càng sâu sắc ở các nước tư bản phát triển, đó là sự bất bình đẳng, bất bình đẳng và khoảng cách thu nhập giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và quần chúng lao động ngày càng xa. nhân công. Dù giai cấp tư sản có cố gắng tìm mọi cách “phù phép” và dùng mọi biện pháp để xoa dịu thì giai cấp tư sản cũng không thể khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Trên thực tế, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vẫn diễn ra ở các nước tư bản chủ nghĩa dưới nhiều hình thức và nội dung khác nhau.

Giai cấp công nhân là giai cấp có tính tổ chức và kỷ luật cao: điều kiện sản xuất tập trung và trình độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, cơ cấu sản xuất chặt chẽ đã rèn luyện cho giai cấp công nhân có đức tính tốt. mà đếm. Vì vậy, giai cấp công nhân có nhiều khả năng và tinh thần đấu tranh hơn các giai cấp khác. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Giai cấp công nhân là giai cấp quốc tế: giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa nói chung có địa vị kinh tế - xã hội như nhau. Vì vậy, họ có cùng một mục tiêu là xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa không có người bóc lột người. Vì vậy, họ muốn hoàn thành sự nghiệp giải thoát. Giai cấp công nhân phải đoàn kết đấu tranh trên phạm vi quốc tế.

Hơn nữa, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất. Tính triệt để đó thể hiện ở chỗ giai cấp công nhân được trang bị hệ tư tưởng tiên tiến là chủ nghĩa Mác - Lênin, do đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận của C. Mác, Ph.Ăngghen và Lê-nin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình không diễn ra một cách thuận lợi. Đã có nhiều quan điểm phê phán giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của họ. .

Một là: Ngày nay, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội và một số phần tử cơ hội ra sức phủ nhận học thuyết Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Theo họ, giai cấp công nhân ngày càng “teo nhỏ” và đã “hòa tan” vào các giai cấp, tầng lớp xã hội khác: Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân có nhiều thay đổi, đại bộ phận tầng lớp này là tầng lớp trung lưu... Nhưng thực tế đã chứng minh quan điểm đó hoàn toàn sai lầm, bởi giai cấp công nhân ngày nay có sự thay đổi về lượng, chuyển sang giai cấp khác nhưng chất lượng không thay đổi. Quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa dù hiện đại đến đâu, dù hình thức của nó có thay đổi như thế nào thì nó cũng không ngừng tái tạo ra những quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Thứ hai: mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa đang diễn ra vô cùng gay gắt. Giai cấp tư sản đã tìm mọi cách điều chỉnh các quan hệ tư bản chủ nghĩa nhằm duy trì chế độ thống trị, nhưng vẫn không che giấu được bản chất bóc lột của mình. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đang đứng trước những thách thức nặng nề, nhưng bức tranh toàn cảnh về sự phát triển của lực lượng sản xuất thế giới đang chuẩn bị những tiền đề khách quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh chính trị của mình. lịch sử của mình. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Thứ ba: Phải chăng hiện nay ở các nước tư bản phát triển, giai cấp công nhân không còn bị bóc lột như trước, họ là “tầng lớp trung lưu” và có cổ phần trong các xí nghiệp nên giai cấp công nhân không có tinh thần cách mạng như trước, không thể giữ vai trò lãnh đạo cách mạng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Thực tế ở các nước tư bản phát triển, đời sống của một bộ phận lớn giai cấp công nhân đã được cải thiện. tiến bộ, nhưng điều đó không có nghĩa là giai cấp công nhân ở các nước đó không bị bóc lột hoặc bị bóc lột không đáng kể. Một số công nhân có cổ phần, cổ phần trong công ty nhưng điều đó không thay đổi. Có một thực tế là toàn bộ tư liệu sản xuất vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản.

Thứ tư: Cũng có quan điểm cho rằng, luận điểm của C.Mác về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong quá khứ có thể đúng nhưng thời nay thì không. Theo họ, thời đại ngày nay là thời đại của giai cấp công nhân. "văn minh trí tuệ", của "kinh tế tri thức". Vì vậy, tri thức là lực lượng tiên phong, giữ vai trò lãnh đạo của cách mạng. Mặc dù trí thức luôn đóng vai trò quan trọng trong mọi thời đại nhưng đội ngũ trí thức không thể thay thế vai trò của giai cấp công nhân. Vì trong xã hội trí thức chỉ là một tầng lớp đặc biệt và không đồng nhất. Người trí thức chưa bao giờ và chưa bao giờ là một giai cấp. Nó không đại diện cho một phương thức sản xuất. Không phải là lực lượng kinh tế chính trị độc lập trước các giai cấp, tầng lớp xã hội khác. Vì vậy, không có hệ tư tưởng riêng thì không thể lãnh đạo cách mạng.

Tất cả những luận điểm trên chỉ chứng minh một điều: giai cấp công nhân là giai cấp mang sứ mệnh lịch sử, và sứ mệnh lịch sử đó chỉ mất đi khi xã hội không có giai cấp, tức là khi chủ nghĩa xã hội mất đi. Chủ nghĩa cộng sản đã thành công trên phạm vi toàn cầu.

4. Nhân tố chủ quan trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, nhưng để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua nhân tố chủ quan. Trong các nhân tố chủ quan đó, việc thành lập một đảng cộng sản trung thành với sự nghiệp và lợi ích của giai cấp công nhân là nhân tố quyết định nhất bảo đảm cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Tôi.

Một. Bản thân giai cấp công nhân

Ngay từ khi mới ra đời trong xã hội tư bản, bản thân giai cấp công nhân đã không ngừng lao động và trưởng thành từng bước về số lượng và chất lượng.

Về số lượng, không chỉ tăng rõ rệt ở tất cả các nước, kể cả trong “nền kinh tế tri thức” hiện nay, mà còn đa dạng hơn về cơ cấu các loại hình lao động với ngành nghề ngày càng đa dạng. , phát triển, tinh vi hơn. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), kể từ năm 1900, toàn thế giới đã có 80 triệu người lao động; Đến năm 1990, thế giới có hơn 600 triệu lao động và đến năm 1998 có 800 triệu lao động…

Về chất, bản thân giai cấp công nhân luôn có sự nâng cao về trình độ học vấn, khoa học công nghệ và tay nghề; Từ hoạt động kinh tế, đấu tranh kinh tế trước mắt, từng bước hoạt động chính trị, đấu tranh chính trị, thông qua công đoàn, nghiệp đoàn, từng bước có ý thức giai cấp, giác ngộ giai cấp và dẫn đến hình thành đảng tiên phong là đảng cộng sản. Khi đó, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp công nhân đã chuyển từ “giai cấp tự thân” (tức là không có ý thức giai cấp) sang “giai cấp vì nó” (tức là giai cấp tự do có ý thức).

Như vậy, giai cấp công nhân trở thành cơ sở chính trị cơ bản nhất của đảng cộng sản.

b. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển của Đảng của giai cấp công nhân

Chỉ khi giai cấp công nhân đạt đến trình độ tự giác, tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin thì phong trào cách mạng của mình mới thực sự trở thành phong trào chính trị. Trình độ lý luận đó cho phép giai cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong xã hội, nguồn gốc sức mạnh của mình, biết tạo nên sức mạnh đó bằng sự đoàn kết, xác định rõ mục tiêu, con đường của mình. và biện pháp giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng loài người.

- Phải được chủ nghĩa Mác soi sáng để giai cấp công nhân đạt đến trình độ nhận thức lý luận về vai trò lịch sử của mình. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân đã dẫn đến sự hình thành chính đảng của giai cấp công nhân. BỞI VÌ. Lênin chỉ rõ đảng là sự kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa xã hội khoa học. Nhưng ở mỗi quốc gia, sự kết hợp vốn là sản phẩm của lịch sử được thực hiện bằng những phương thức đặc biệt, tuỳ thuộc vào điều kiện không gian và thời gian. Ở nhiều nước thuộc địa và nửa thuộc địa, chủ nghĩa Mác thường kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để thành lập đảng cộng sản. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

– Từ thực tiễn lịch sử nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương ngay từ đầu những năm đầu. 1930.

Chỉ có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác trong từng hành vi với tư cách là một giai cấp tự giác và thực sự cách mạng. C. Mác nhấn mạnh, trong cuộc đấu tranh chống quyền thống nhất của các giai cấp tư sản, chỉ giai cấp vô sản mới có thể tự tổ chức thành chính đảng độc lập của mình để chống lại quyền liên hợp của các giai cấp tư sản, chỉ khi nào giai cấp vô sản tự tổ chức thành một đảng độc lập. của tất cả các đảng phái chính trị cũ do giai cấp hữu sản thành lập thì nó có thể hoạt động như một giai cấp được không.

c. Mối quan hệ giữa Đảng cộng sản và giai cấp công nhân

Đảng chính trị là tổ chức cao nhất, đại biểu trí tuệ và lợi ích của cả giai cấp. Đối với giai cấp công nhân, đó là đảng cộng sản, không chỉ đại biểu trí tuệ và lợi ích của giai cấp công nhân mà còn là của toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc.

Xem thêm: cách tạo động lực

-Vì vậy, phải có một chính đảng vững vàng, kiên định, sáng suốt, có đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, thể hiện lợi ích của cả giai cấp, của cả phong trào để giai cấp công nhân thực hiện mục tiêu của mình. sứ mệnh lịch sử của nó.

Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội - giai cấp của đảng, là nguồn bổ sung lực lượng của đảng. phẩm chất, trí tuệ của giai cấp công nhân và của dân tộc. Giữa Đảng và giai cấp công nhân có mối quan hệ hữu cơ, không thể tách rời. Đảng viên của đảng cộng sản có thể không phải là công nhân nhưng phải giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và giữ vững lập trường của mình. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Đối với một đảng cộng sản chân chính, sự lãnh đạo của đảng là sự lãnh đạo của giai cấp. Đảng thống nhất với giai cấp, nhưng đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo giai cấp và dân tộc; Vì vậy, không thể nhầm Đảng với giai cấp. Đảng đem lại sự giác ngộ cho cả giai cấp, sức mạnh đoàn kết, nghị lực cách mạng, trí tuệ và hành động cách mạng của cả giai cấp, trên cơ sở đó lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân lao động khác tham gia. cả dân tộc đứng lên hành động theo đường lối của Đảng để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân cũng như mỗi người công nhân cần phải không ngừng phấn đấu vươn lên, trưởng thành về mọi mặt: tư tưởng, chính trị, lập trường giai cấp, văn hóa, khoa học kỹ thuật, tay nghề. .. Công đoàn, nghiệp đoàn, thường xuyên phát triển vững mạnh... cùng với sự phát triển không ngừng của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, v.v.

III. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

1. Nguồn gốc của giai cấp công nhân Việt Nam

Trước thế kỷ XV, Việt Nam chưa có điều kiện thuận lợi để phát triển công thương nghiệp và kinh tế hàng hóa nhưng đã có tầng lớp thợ thủ công. Thế kỷ XV, XVI xuất hiện đội ngũ “làm công ăn lương”. Vào đầu thế kỷ 19, ngành công nghiệp khai thác mỏ phát triển và hàng ngàn "thợ mỏ" làm việc trong các mỏ than và thiếc. Nhưng đó không phải là công nhân hiện đại, sản xuất theo dây chuyền công nghiệp.

Đội ngũ công nhân Việt Nam xuất hiện khi có cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914) của thực dân Pháp. Các khu công nghiệp tập trung ở Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh - Bến Thủy, Hòn Gai khiến số công nhân tăng nhanh… Số công nhân năm 1906 là 49.500 người, trong đó có 1.800 chuyên gia. .

Nhiều nhà máy quy tụ số lượng công nhân lớn như: Xi măng Hải Phòng có 1.500 người, 3 nhà máy dệt ở Nam Định, Hải Phòng và Hà Nội cũng có 1.800 người, cá biệt có nhà máy xay xát ở Sài Gòn lên đến 3.000 người. trên tuyến đường sắt Vân Nam - Hải Phòng đã thu hút tới 60.000 người. Ngành khai khoáng (năm 1914) có tới 4000 công nhân, chưa tính số “công nhân thời vụ”. Tổng số công nhân Việt Nam trước Thế chiến I khoảng 100.000 người.

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919-1929) nhằm tăng cường cướp bóc, bóc lột nhân dân thuộc địa để bù đắp những thiệt hại trong chiến tranh. bức vẽ.

Sự phát triển của một số ngành công nghiệp khai khoáng, dệt may, giao thông vận tải, chế biến... dẫn đến số lượng công nhân tăng nhanh, hàng chục vạn người tập trung ở nhiều nơi như công nhân mỏ, công nhân đồn điền. Ở các thành phố, nhiều nhà máy có trên 1.000 công nhân như nhà máy Xi măng Hải Phòng, nhà máy Dệt Nam Định. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Đến cuối năm 1929, tổng số công nhân làm việc trong các xí nghiệp tư bản Pháp là hơn 220 vạn người, trong đó có 5,3 vạn công nhân thợ mỏ, 8,6 vạn công nhân thương nghiệp, 8,1 vạn công nhân các đồn điền trồng cây công nghiệp. Đó là chưa kể những người làm việc trong các xưởng thủ công lớn nhỏ, thợ may, thợ cắt tóc, công nhân giặt là, đầu bếp, khuân vác…

Như vậy, từ sự đầu tư khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã dẫn đến sự ra đời tất yếu và khách quan của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Và đó cũng chính là điều kiện cơ bản để xuất hiện một giai cấp mới - giai cấp công nhân Việt Nam.

Đa số công nhân nước ta xuất thân từ nông dân. Trong số 27.505 công nhân, đồn điền và thợ mỏ ở 15 tỉnh Bắc Kỳ năm 1929 có 24.658 là nông dân (chiếm 84,6%). Sớm tiếp thu truyền thống anh hùng bất khuất, chống giặc ngoại xâm của dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam đã hăng hái đấu tranh với chủ nghĩa tư bản Pháp. Tuy nhiên, phần lớn các cuộc đấu tranh còn manh mún, tự phát, thiếu sự lãnh đạo, chỉ tập trung vào đòi quyền lợi kinh tế, cuộc sống trước mắt, với các hình thức như bỏ việc về quê. , đòi tăng lương, đánh nhau. Điển hình là cuộc đấu tranh của công nhân đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn, công nhân mỏ thiếc - kẽm Cao Bằng, gạch Yên Thế, thợ dệt Nam Định. Tuy nhiên, cũng có một số cuộc đấu tranh của công nhân với tinh thần dân tộc cao như phong trào ủng hộ nghĩa quân Yên Thế, tham gia biểu tình đòi thả nhà yêu nước Phan Bội Châu, phong trào để tang nhà yêu nước Phan Bội Châu. Chu Trinh…. trong cao trào yêu nước những năm 1925-1926 ở Sài Gòn. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, số lượng các cuộc đình công ngày càng nhiều và quan trọng hơn là các cuộc đình công có tính chất chính trị, có tổ chức lãnh đạo. Nếu năm 1927 có 7 cuộc bãi công, năm 1929 có 24 cuộc bãi công thì năm 1930 có 30 cuộc bãi công với số người tham gia lên đến gần 32.000 người. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và phong trào yêu nước 1925 - 1929 là điều kiện quyết định cho sự ra đời của các tổ chức Cộng sản và Công hội đỏ ở Việt Nam, đặc biệt là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đầu những năm 1930.

2. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến sự hình thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam

Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, giai cấp công nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ bị thực dân Pháp khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924-1929). ). Cùng với sự phát triển của cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm trở thành một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế. Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng:

đầu tiên Sinh ra và lớn lên trên một đất nước từng là thuộc địa, nửa phong kiến, với truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, tuy còn nhỏ tuổi nhưng giai cấp công nhân đã sớm trở thành giai cấp công nhân. Người duy nhất được lịch sử và dân tộc ghi nhận và giao trọng trách lãnh đạo cách mạng Việt Nam kể từ khi các phong trào cứu nước theo lập trường Cần Vương, lập trường tư sản và tiểu tư sản bị thất bại.

Thứ hai Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa trưởng thành, vừa tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác, thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, sớm thực hiện mục tiêu lý tưởng và chân lý của thời đại: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam luôn có bản chất và tinh thần cách mạng. mạng triệt để. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Thứ ba : Giai cấp công nhân nước ta xuất thân từ nông dân lao động, bị thực dân phong kiến ​​bóc lột, bần cùng hóa nên có mối quan hệ máu thịt với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác. Trải qua những thử thách của cách mạng, liên minh giai cấp đã trở thành động lực và nền tảng vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ Tư Kể từ khi trở thành giai cấp thống trị, giai cấp công nhân Việt Nam luôn phát huy bản chất cách mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn là lực lượng đi đầu, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới và đẩy mạnh công cuộc đổi mới. công nghiệp hóa, hiện đại hóa để xây dựng và phát triển nền kinh tế công nghiệp, nền kinh tế tri thức hiện đại.

Thứ năm: Quá trình “trí thức hóa” của giai cấp công nhân diễn ra mạnh mẽ, dần dần hình thành nên đội ngũ trí thức giai cấp công nhân Việt Nam.

Sự hình thành giai cấp công nhân trí thức không có nghĩa là bổ sung vào giai cấp công nhân những người có trình độ cao mà là giai cấp công nhân được nâng cao về trình độ và thay đổi về tính cách. lao động-lao động điều khiển các công nghệ tự động hóa của nền kinh tế tri thức.

Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là điều kiện tiên quyết bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam nói chung và trong thời kỳ CNH, HĐH (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam nói chung

Là lực lượng nòng cốt lãnh đạo cách mạng Việt Nam, bảo vệ lợi ích dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích giai cấp, luôn giữ vững bản chất cách mạng và bản lĩnh chính trị.

Nghị quyết 20 NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X khẳng định “Giai cấp cộng sản Việt Nam chúng ta có một sứ mệnh lịch sử trọng đại: làm giai cấp tiên phong lãnh đạo cách mạng. của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến hiện đại, là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện nay. hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước

Sinh ra và lớn lên trong một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến, giai cấp công nhân Việt Nam phải chịu ba tầng áp bức, bóc lột. Vì vậy, họ sớm trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột. giải phóng giai cấp công nhân và xây dựng chế độ mới.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân cùng với các giai cấp và tầng lớp lao động khác ở nước ta đã thực hiện đoàn kết dân tộc để hoàn thành cuộc Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân và đưa nước ta hội nhập thế giới. thời kỳ độc lập tự do và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ xây dựng chế độ mới, điều đó không có nghĩa là giai cấp công nhân đã hết sứ mệnh lịch sử của mình mà ngược lại, sứ mệnh lịch sử đó càng quan trọng hơn. hơn . Ngày nay, trước những biến động phức tạp của bối cảnh trong nước và quốc tế. Các thế lực thù địch luôn tìm cách tấn công nhằm chống phá chủ nghĩa xã hội ở nước ta. công nhân và Đảng Cộng sản trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, phủ nhận những thành tựu của Đảng và nhân dân ta. Qua đó phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, chúng ta đã đạt được những kết quả bước đầu của công cuộc đổi mới và khẳng định rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tại các kỳ Đại hội VII, VIII, IX là đúng đắn. thể hiện rõ quyết tâm đi theo con đường xã hội chủ nghĩa của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Có như vậy chúng ta mới thực sự mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xóa bỏ mọi bất công trong xã hội. Nếu trước đây không có giai cấp nào khác ngoài giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng thì ngày nay điều đó càng khẳng định không có một lực lượng xã hội nào khác có thể lãnh đạo nhân dân ta vượt qua khó khăn. thử thách đó.

Nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước có nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển. Vì vậy, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đi đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, giai cấp công nhân cùng với Đảng và Nhà nước phải:

“Thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng một nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức bất công; đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch để bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta giàu mạnh. một đất nước xã hội chủ nghĩa thịnh vượng và hạnh phúc.”

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức, giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lịch sử là vừa tiếp tục làm quen với nền công nghiệp truyền thống, vừa nhanh chóng tiếp cận và làm chủ các hoạt động. sản xuất ở trình độ cao dưới sức ép của nền kinh tế tri thức (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua hệ thống tư bản chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng do sự tồn tại và phát triển của nhiều thành phần kinh tế đã gây ra những xu hướng phát triển kinh tế khác nhau. Một là: sự phát triển được thực hiện một cách tự nguyện, hai là: khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. - một đặc điểm vốn có của nền sản xuất nhỏ. Như vậy, cuộc đấu tranh vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là chống lại xu hướng đi lên chủ nghĩa tư bản tự phát. Tất nhiên trong thời kỳ này khi vẫn còn đảng viên. Trong kinh tế tư bản tư nhân vẫn tồn tại mâu thuẫn giữa lao động và tư bản, nhưng bản chất có khác do chính sách mềm dẻo của Đảng và Nhà nước. Ngày nay, giai cấp công nhân không phân biệt thành phần kinh tế đều có quyền làm chủ đất nước. Mâu thuẫn giữa tư bản và công nhân từng bước được giải quyết bằng sự quản lý của nhà nước nhân dân, nhưng đấu tranh giai cấp thì không như vậy. trình độ vẫn còn đó, đó là cuộc đấu tranh chống khuynh hướng tư bản chủ nghĩa tự phát; đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo...

Trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cùng với việc đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH đất nước, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam hiện nay là mâu thuẫn giữa các lực lượng và nhân tố thúc đẩy quá trình phát triển. đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những lực lượng, nhân tố kìm hãm quá trình đó. Vậy vấn đề đặt ra là: giai cấp nào, giai cấp nào có thể lãnh đạo nhân dân chống lại những khuynh hướng tư bản tự phát, chống lại những mâu thuẫn đó? Chỉ có thể khẳng định đó là giai cấp công nhân. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

4. Vai trò, vị trí của giai cấp công nhân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc

Sự ra đời, đặc điểm và điều kiện để giai cấp công nhân vươn lên lãnh đạo cách mạng Việt Nam

Với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời vào đầu thế kỷ này, trước khi giai cấp tư sản Việt Nam ra đời và là giai cấp trực tiếp đối lập với tư bản thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới ách thống trị của đế quốc Pháp, một loại chủ nghĩa tư bản thực dụng, ít quan tâm đến sự phát triển công nghiệp ở nước thuộc địa nên giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm.

-Tuy số lượng ít, trình độ chuyên môn thấp, còn nhiều tàn dư của tâm lý và tập tục nông dân nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm nhận vai trò lãnh đạo cách mạng nước ta. do các điều kiện sau:

– Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong lòng dân tộc có truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. Ở giai cấp công nhân, nỗi tủi nhục mất nước và nỗi đau bị đế quốc áp bức, bóc lột đã làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc hoà làm một, làm cho động cơ cách mạng, lực lượng cách mạng và tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân được nhân lên.

– Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và từng bước trưởng thành trong khí thế sục sôi của hàng loạt phong trào yêu nước và khởi nghĩa chống thực dân Pháp nổ ra liên tục từ khi đế quốc Pháp đặt chân lên đất nước. ở nước ta: phong trào Cần Vương và khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, của Hoàng Hoa Thám, các cuộc vận động yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học... đã có tác dụng cổ vũ to lớn tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất và quyết tâm phá bỏ xiềng xích nô lệ của toàn dân ta. Nhưng tất cả các phong trào đó đều thất bại và sự nghiệp giải phóng dân tộc lâm vào bế tắc về đường lối. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

– Lúc bấy giờ, phong trào cộng sản và công nhân thế giới phát triển, Cách mạng Tháng Mười Nga bùng nổ, giành thắng lợi và tác động đến phong trào dân tộc - dân chủ ở các nước, nhất là ở Trung Quốc, trong đó có phong trào cách mạng ở nước ta. Chính vào thời điểm đó, nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc trên hành trình tìm đường cứu nước đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin bí quyết kỳ diệu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của chúng ta. Từ đó, Người đề ra con đường duy nhất đúng đắn cho cách mạng Việt Nam - con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và chuyển cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.

-Tấm gương của cách mạng Nga và phong trào cách mạng ở nhiều nước khác đã cổ vũ giai cấp công nhân trẻ Việt Nam đứng lên nhận sứ mệnh lãnh đạo cách mạng nước ta, đồng thời là chất xúc tác cổ vũ nhân dân. Chúng ta lựa chọn và chấp nhận con đường cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và đi theo con đường cách mạng của giai cấp công nhân. Từ đó, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

– Giai cấp công nhân Việt Nam mà đại đa số là nông dân và các tầng lớp lao động khác có mối liên hệ tự nhiên với đông đảo nhân dân lao động bị cướp nước, sống kiếp nô lệ. Vì vậy, đó cũng là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân xây dựng khối liên minh công nông vững chắc và khối đại đoàn kết toàn dân tộc rộng rãi, bảo đảm vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong quá trình cách mạng ở nước ta. . (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam

Lịch sử Việt Nam cũng chứng minh, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời chưa lâu, chưa có Đảng, nhưng đã tự phát tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chống tư bản thực dân và được Đảng Cộng sản thừa nhận. mọi người ủng hộ. Cuộc đình công của 600 thợ nhuộm Chợ Lớn năm 1922 mà Nguyễn Ái Quốc cho là chỉ “do bản năng tự vệ” của những người công nhân “vô học, vô tổ chức” mà là “dấu hiệu... của... thời đại". Năm 1927 có gần chục cuộc bãi công với hàng trăm người tham gia. Năm 1928-1929 còn có nhiều cuộc bãi công khác với hàng nghìn người tham gia, trong đó tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh của công nhân xi măng Hải Phòng, sợi Nam Định, xe lửa Trường Thi (Vinh), AVIA (Hà Nội). ), Phú Riềng (Bình Phước). Những cuộc đấu tranh đó không chỉ giới hạn trong giới công nhân mà còn tác động sâu rộng đến các tầng lớp khác, nhất là giai cấp nông dân, công nhân, thanh niên, học sinh, sinh viên lao động. chế độ thực dân hoang mang.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Đảng đã đưa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, làm cho phong trào cách mạng nước ta có bước phát triển nhảy vọt về chất.

Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi chúng ta nói rằng giai cấp công nhân lãnh đạo, chúng ta muốn nói đến toàn bộ giai cấp chứ không phải từng nhóm hay từng người. Để có thể lãnh đạo, giai cấp công nhân phải có một lực lượng và một tổ chức tiêu biểu cho bản chất giai cấp và tự giác của mình. Lực lượng đó chính là Đảng cộng sản. Về lý lịch, nước ta có nhiều đảng viên không phải là công nhân. Tuy nhiên, bất kỳ đảng viên nào cũng phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân thể hiện ở lý tưởng, lý luận Mác - Lênin và đường lối cách mạng, ở tinh thần cách mạng kiên quyết đấu tranh để hoàn thành nhiệm vụ. sứ mệnh của giai cấp công nhân vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Điều này đã được Đảng ta chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; người đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Đảng của giai cấp công nhân nước ta đã lãnh đạo toàn dân hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và đang tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là nhiệm vụ lịch sử khó khăn, phức tạp nhất. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

-Trong quá trình xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, lực lượng lao động Việt Nam bao gồm lao động chân tay và lao động trí óc tham gia vào hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp và dịch vụ thuộc các vùng khác nhau. doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã hoặc tư nhân, liên doanh với nước ngoài, tạo thành lực lượng giai cấp công nhân thống nhất tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh lãnh đạo công cuộc đổi mới và sự phát triển của đất nước. Họ là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là nền tảng xã hội quan trọng nhất của Đảng và Nhà nước ta, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân - nông dân - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tuy nhiên, do hoàn cảnh và điều kiện kinh tế - xã hội quy định, giai cấp công nhân Việt Nam vẫn còn những nhược điểm (như số lượng ít, chưa được đào tạo nhiều trong nền công nghiệp hiện đại, trình độ văn hóa và tay nghề thấp…). Nhưng đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Để khắc phục những tồn tại đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII, một Nghị quyết gắn trực tiếp vấn đề CNH, HĐH với vấn đề xây dựng và phát triển giai cấp. Công nhân đã chỉ rõ phương hướng xây dựng giai cấp công nhân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là: “Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và công nghệ theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh trong số, được giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có khả năng tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình”. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa quan trọng. Giai cấp công nhân đi đầu trong xây dựng xã hội mới, nhất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. sáng. Đó là minh chứng rõ nét về năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta, vai trò không lực lượng xã hội nào có thể thay thế được trong sự nghiệp... "lãnh đạo thành công công cuộc xây dựng xã hội mới, trong đó nhân dân lao động là chủ, là nước". độc lập tự chủ, áp bức bất công bị xóa bỏ, mọi người có điều kiện phấn đấu để có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.

- Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm chỉ đạo xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Đối với giai cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

5. Vai trò, vị trí của giai cấp công nhân Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội giai đoạn hiện nay

Những đổi thay của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới

a) Về số lượng (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, giai cấp công nhân đã tăng lên về số lượng, nhưng còn chiếm tỷ lệ thấp trong dân số và lực lượng lao động.

1986: 4,160 triệu người

2000: 5,869 triệu người

Như vậy, trong vòng mười lăm năm từ 1986 đến 2000, số công nhân nước ta đã tăng lên 110.000 người. Hiện nay, nước ta có trên 6 triệu công nhân, chiếm 8% dân số và 15% lực lượng lao động. Con số này đang tiếp tục. tăng

b) Về chất lượng

Trình độ học vấn và tay nghề của người lao động trong những năm gần đây không ngừng được nâng cao do chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chính sách phát triển văn hóa, giáo dục của Đảng và Nhà nước. thanh niên công nhân. Tuy nhiên, do những hạn chế về cơ sở vật chất kỹ thuật, chế độ tiền lương… nên chưa thực sự khuyến khích người lao động học tập nâng cao tay nghề, học tập nâng cao trình độ nghề nghiệp. Vì vậy, năng suất lao động của người lao động nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới.

c) Về cơ cấu

Tỷ trọng lao động gắn với các ngành truyền thống giảm, bộ phận lao động gắn với các ngành mũi nhọn tăng lên. Nếu trước đây công nhân chủ yếu là lực lượng cơ bắp thì ngày nay một bộ phận lớn đã được bổ sung thêm lực lượng công nhân. lao động trí óc, kỹ thuật viên, kỹ sư... Lao động trong các ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng cao. Trước năm 1986, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ gồm hai bộ phận là công nhân trong doanh nghiệp nhà nước và tập thể, nhưng ngày nay bao gồm nhiều bộ phận như trong doanh nghiệp nhà nước, tập thể, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh, v.v. - Doanh nghiệp có vốn đầu tư, người lao động đi làm việc ở nước ngoài…

d) Điều kiện làm việc, thu nhập và mức sống của người lao động hiện nay tuy đã được cải thiện nhờ các chính sách của Đảng và Nhà nước nhưng còn thấp. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

e) Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhận thức, tâm lý, nguyện vọng... của người lao động cũng chuyển biến tích cực.

Bước sang thế kỷ XXI dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, chịu sự tác động mạnh mẽ của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự phát triển vượt bậc của khoa học và công nghệ, trước sự chống phá của các thế lực thù địch. lực lượng, có thể dẫn đến những biến đổi của giai cấp công nhân theo xu hướng ngày càng đa dạng về cơ cấu, tăng nhanh về số lượng, giai cấp công nhân trẻ. trình độ học vấn, tay nghề được nâng cao, tỷ trọng lao động khu vực ngoài nhà nước tiếp tục tăng, xu hướng phân hóa trong giai cấp công nhân... Làm thay đổi diện mạo giai cấp công nhân Việt Nam

-Như vậy, dưới tác động của điều kiện mới, giai cấp công nhân đã có những thay đổi cả về cơ cấu, số lượng và chất lượng, cả mặt tích cực và tiêu cực. Những chuyển biến tích cực của giai cấp công nhân nước ta trong thời gian qua đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trong công cuộc đổi mới đất nước, củng cố và phát huy vai trò lịch sử, luôn là giai cấp công nhân. đi đầu trong sự nghiệp cách mạng của đất nước nói chung và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói riêng.

6. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, tác dụng và một số giải pháp

  1. Thực tế

Đánh giá về giai cấp công nhân sau hơn 20 năm đổi mới, tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VI, chúng ta khẳng định: “Sau hơn 20 năm đổi mới, cùng với quá trình CNH, HĐH đất nước, giai cấp công nhân chúng ta công nhân cả nước có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu và nâng cao về chất lượng, hình thành đội ngũ công nhân trí thức ngày càng đông đảo, tiếp tục phát huy vai trò công nhân, vai trò giai cấp thống trị thông qua đội tiên phong là Đảng

Những người Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế đã ra sức phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Trong những năm đổi mới vừa qua, giai cấp công nhân nước ta đã có những bước phát triển tích cực và mạnh mẽ, ngày càng tăng nhanh về số lượng, ngày càng đa dạng về cơ cấu, chất lượng đội ngũ lao động ngày càng được nâng cao. , đó là biểu hiện của sự xuất hiện đội ngũ công nhân tri thức; là lực lượng sản xuất cơ bản, trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh, vận hành và sử dụng công cụ, phương tiện sản xuất tiên tiến, hiện đại, giữ vai trò quan trọng, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế . Cùng với các giai cấp, tầng lớp khác trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

So với yêu cầu phát triển của đất nước, số lượng công nhân còn hạn chế

Chủ yếu là lao động trong các ngành trực tiếp sản xuất nên năng suất ở các ngành này thấp, cơ cấu ngành chưa hợp lý, lao động chủ yếu ở doanh nghiệp nhà nước, thiếu đa dạng.

sinh hoạt văn hóa tinh thần, tư duy của giai cấp công nhân nước ta hiện nay vẫn là tư duy của công nhân các nước đang phát triển, chỉ nghĩ đến cái ăn, cái ở gắn với tư duy của giai cấp nông dân cũng thấp hèn, chưa biết suy nghĩ sâu xa. cho xã hội.

  1. Giải pháp thúc đẩy giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử

a) đối với giai cấp công nhân

  • + Không ngừng học hỏi nâng cao kỹ năng và kiến ​​thức
  • +  không ngừng nâng cao giác ngộ giai cấp

b) Đảng cộng sản

  • +  tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
  • +  Nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực của đảng viên, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, cơ cấu cán bộ phải hợp lý

c) đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

  • + Có chính sách giáo dục đào tạo nhằm nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng của giai cấp công nhân cho phù hợp với yêu cầu của thời đại mới.
  • + quan tâm hơn đến vấn đề nâng cao đời sống người lao động
  • + Củng cố khối đại đoàn kết, liên minh hữu nghị và hợp tác với giai cấp công nhân quốc tế

KẾT LUẬN

Tóm lại, từ những phân tích trên đây về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cả về lý luận và thực tiễn, không thể phủ nhận giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến, có vai trò Nó đã có vai trò to lớn trong lịch sử phát triển của thế giới, là lực lượng xã hội tiên phong trong việc đưa khoa học và công nghệ vào nền sản xuất xã hội. Hiểu rõ về giai cấp công nhân, đặc biệt là hiểu sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức của chúng ta, giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn đối với giai cấp công nhân. giai cấp trong xã hội nói chung và giai cấp công nhân nói riêng. Qua đó, mỗi cá nhân trong xã hội cần không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm giai cấp, ý thức xã hội để trau dồi kiến ​​thức văn hóa. Tôi. (Tiểu luận: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam)

Xem thêm: xác suất thống kê

Mặt khác, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một nội dung quan trọng đối với giai cấp công nhân nên cần được xã hội, nhất là Đảng Cộng sản chú trọng, tạo điều kiện để nó thực hiện một cách tốt nhất.